Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2014

Mang thai 3 tháng đầu là giai đoạn nhạy cảm và tương đối mệt mỏi với nhiều thai phụ. Do nội tiết trong cơ thể thay đổi nên trong giai đoạn đầu bà bầu dễ mắc các bệnh nhiễm virus như cúm, sởi,.. gây nên những bất thường cho thai nhi. Vì vậy, việc chăm sóc sức khỏe nói chung và quan tâm đến chế độ dinh dưỡng trong giai đoạn đầu mang thai là điều rất quan trọng và cần thiết với bà bầu.



Dấu hiệu mang thai – những thay đổi ở người mẹ


Mệt mỏi


Nhiều thai phụ sẽ cảm thấy mệt mỏi trong 3 tháng đầu. Tuy nhiên, bạn không nên lo lắng vì đây chỉ là hiện tượng bình thường. Đây là cách cơ thể thông báo với bạn rằng nó cần được nghỉ ngơi nhiều hơn. Sau hết, cơ thể bạn đang phải làm việc rất cực nhọc để phát triển cả một sinh thể mới. Để loại bỏ được cảm giác này bà bầu hãy đảm bảo giấc ngủ 8 tiếng/ngày (ngủ thêm buổi trưa nếu có thể) và loại bỏ những stress ra khỏi tâm trạng để tránh mệt mỏi. Hãy nghỉ ngơi thật nhiều nếu có thể.


Buồn nôn và nôn


Thường được gọi là ốm nghén, triệu chứng buồn nôn và nôn rất thường gặp trong giai đoạn đầu mang thai. Mặc dù bạn sẽ cảm thấy có vẻ như triệu chứng này kéo dài mãi mãi, nhưng nó thường sẽ hết sau 3 tháng đầu thai kỳ. Cải thiện tình trạng này bà bầu có thể chia nhỏ bữa ăn thành nhiều lần trong ngày để tránh cảm giác “ngán” đồng thời thai phụ cũng nên cung cấp đủ lượng nước cơ thể cần (khoảng 8 cốc nước một ngày).


Đi tiểu thường xuyên


Do sự phát triển của thai nhi gây nên sức ép cho bàng quang vậy nên sẽ khiến bà bầu thường xuyên buồn tiểu. Điều này là dấu hiệu bình thường, nhưng sẽ là bất thường nếu thai phụ đi tiểu kèm theo cảm giác đau rát, lẫn máu trong nước tiểu và phải đi thăm khám ngay nếu bà bầu nào gặp hiện tượng như thế.


Nhiễm virus cúm


Khi mang thai 3 tháng đầu, bạn cần tránh để mắc các bệnh nhiễm virus như cúm, sởi vì có thể gây những bất thường cho thai nhi. Nếu bị cúm, bà bầu tuyệt đối phải tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng các loại thuốc.


Tăng cân nhẹ


Trong vòng 3 tháng đầu, chỉ số cân nặng của bạn sẽ tăng lên một ít, khoảng nửa kg mỗi tháng.


Ăn gì khi mang thai 3 tháng đầu


Trong 3 tháng đầu, thai phụ chỉ cần tăng 0,9 kg tới 2,3 kg. Riêng các mẹ đã béo phì thì không nên để tăng cân. Đây là giai đoạn cơ thể mẹ sẽ có những biến đổi sinh lý để thích nghi, đồng thời là thời gian quan trọng cho sự phát triển não bộ và hệ thần kinh của bé. Vì vậy dù mẹ kém ăn nhưng cũng phải chú ý tăng thêm lượng chất đạm, nhất là những protein chất lượng cao dễ tiêu hóa, dễ hấp thu như: trứng, sữa các loại, các loại thịt gia cầm, cá và đậu…


Thai phụ cần lưu ý ăn đủ bữa trong ngày: 3 bữa chính + 3 bữa phụ.


Sau 3 tháng đầu thai kỳ người mẹ mới hết buồn nôn, ăn ngon miệng, thèm ăn vặt. Đây là giai đoạn mẹ dễ dàng tăng tốc để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cao hơn. Vì thế cơ thể mẹ cần thêm năng lượng, song không phải chỉ ăn nhiều hơn về số lượng, mà nên chú trọng những chất dinh dưỡng cần thiết như:


Chất đạm (protein): Có nhiều trong thịt, cá, trứng, sữa, các loại đậu đỗ… giúp phát triển các tế bào mô của thai (bao gồm cả tế bào não), giúp cho tuyến vú và mô tử cung của mẹ phát triển suốt thai kỳ, đồng thời tăng thể tích tuần hoàn của mẹ. Thai phụ cần bổ sung thêm 10-18g protein mỗi ngày (tương đương 50-100 gr thịt cá tùy loại, 100-180 gr đậu hũ, hay 1-2 ly sữa mỗi ngày).


Chất sắt: Có nhiều trong thịt, gan, tim, cật, rau xanh và các loại hạt… giúp tăng thể tích máu và phòng ngừa thiếu máu. Nếu thai phụ thiếu máu sẽ làm giảm lực co bóp của tử cung khi chuyển dạ, giảm lượng sắt dự trữ của em bé trong 6 tháng đầu đời. Vì thế thai phụ cần bổ sung thêm ít nhất 15gr sắt mỗi ngày.


Canxi: Có nhiều trong sữa, trứng, tôm, cua, cá, rau xanh, đậu đỗ… giúp hoạt động hệ thần kinh và đông máu bình thường cho mẹ, hình thành hệ xương và răng vững chắc cho bé. Nếu thiếu canxi mẹ dễ bị vọp bẻ, đau nhức xương, bé có thể bị còi xương ngay trong bụng mẹ.


Acid folic (vitamin B9): Giúp giảm nguy cơ dị tật ống thần kinh cho trẻ, tật nứt đốt sống trong bào thai. Vitamin này có trong các loại rau màu xanh thẫm như rau muống, cải xanh, súp lơ xanh, cải bó xôi, ngũ cốc hoặc một số loại hạt như vừng, lạc… Ngoài ra acid folic còn có trong thịt gia cầm và nội tạng động vật như gan, tim


Vitamin D: Có trong trứng, sữa và ánh nắng mặt trời. Ngay từ trong bào thai, bé cần phát triển hệ xương và hình thành mầm răng sữa, vì vậy ngoài việc bổ sung thực phẩm nhiều canxi, người mẹ phải kết hợp phơi nắng để tăng cường vitamin D giúp hấp thu canxi tối ưu. Thai phụ cần phơi nắng khoảng 15 phút mỗi ngày (tránh ánh nắng quá gay gắt), nên để ánh nắng chiếu trực tiếp vào cơ thể, không nên đeo găng tay, đi vớ và cũng không nên phơi nắng sau cửa kính.


Vitamin C: Giúp hỗ trợ phát triển xương sụn, cơ và mạch máu cho bào thai, tạo bánh nhau bền chắc. Nó cũng là một chất chống oxy hóa giúp người mẹ tăng cường sức đề kháng. Vitamin C có trong các loại rau xanh, trái cây…

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2014

Trong khoảng thời gian bé bốn tháng tuổi đến sáu tháng tuổi, bé sẽ có những dấu hiệu cho thấy bé đã sẵn sàng với các loại thức ăn cứng khác thay vì chỉ bú sữa mẹ. Bé ngồi đã vững, bé có thể nhặt và cầm các đồ vật nhỏ và bé tỏ ra rất háo hức với đĩa thức ăn của bạn.



Trong thời kì cho con ăn dặm quan trọng không phải chỉ vì cung cấp những dưỡng chất thiết yếu cho sự phát triển thể chất của bé mà chúng còn giúp bé làm quen với thế giới ẩm thực muôn màu muôn vẻ. Tuy nhiên, mỗi em bé đều có những dấu hiệu khác nhau vì vậy việc của bạn là phải biết cách quan sát con mình để tìm ra những dấu hiệu đó, thay vì ép buộc bé chuyển ngay sang chế độ ăn dặm theo ý cha mẹ.


Vì vậy, khi tập cho bé ăn dặm các mẹ cần lưu ý những vấn đề sau.


Chắc chắn con bạn đã sẵn sàng.


Theo các bác sĩ, bạn nên đợi đến khi con được từ bốn đến sáu tháng tuổi mới bắt đầu cho con làm quen với ăn dặm. Trong khoảng thời gian này, bé sẽ có những dấu hiệu cho thấy bé đã sẵn sàng với các loại thức ăn cứng khác thay vì chỉ bú sữa mẹ. Bé ngồi đã vững, bé có thể nhặt và cầm các đồ vật nhỏ và bé tỏ ra rất háo hức với đĩa thức ăn của bạn. Tuy nhiên, mỗi em bé đều có những dấu hiệu khác nhau vì vậy điều quan trọng là bạn phải biết cách quan sát con mình để tìm ra những dấu hiệu đó.


Theo dõi khả năng dung nạp đồ ăn của con


Khi bắt đầu chuẩn bị bột ăn dặm cho bé , bạn đừng trổ tài làm món mới liên tục cho bé vội làm gì. Bạn nên để bé tập ăn một loại thức ăn trong khoảng một tuần rồi hãy chuyển qua loại thức ăn khác. Điều này sẽ giúp mẹ phát hiện xem con có thích đồ ăn đó không hay có bị dị ứng với loại nào không.


Nếu bé thích thú với thực đơn cho bé ăn dặm thì  chúc mừng bạn, bạn là người vô cùng may mắn vì con bạn dễ tính, không khảnh ăn. Còn nếu bé khóc, quấy, không chịu ăn, tiêu chảy, bạn hãy thử đổi món ăn và cho con thêm thời gian để tập làm quen với mùi vị mới.


Mỗi tuần cho bé ăn thực đơn ăn dặm với loại thức ăn mới


Thời gian tốt nhất để cho bé làm quen với một loại thức ăn mới là vào buổi sáng. Điều này sẽ giúp bạn dễ dàng quan sát thấy phản ứng của bé với thức ăn ví dụ bé tỏ ra thích thú hay khó chịu, bé có dị ứng với thức ăn mới hay không. Nếu sau khi bé ăn xong, bạn thấy bé có những dấu hiệu như chảy nước mũi, nghẹn, đau bụng, bé la hét om sòm thì phải báo ngay với bác sĩ.


Lịch ăn dặm cho bé


Bạn cho bé ăn 2-3 bữa chính mỗi ngày và đan xen là bữa ăn nhẹ (có thể là bánh quy ăn dặm, bim bim giòn tan, hoa quả, váng sữa hoặc sữa chua…). Để cho con không bị khát bạn hãy cho bé uống sữa bổ sung nhé. Lịch ăn dặm khoa học dành cho bé có thể được tính như sau:


Bé từ 4 – 6 tháng tuổi nên ăn 2 bữa mỗi ngày, mỗi bữa 2-4 muỗng cà phê thức ăn


Bé từ 7 – 12 tháng tuổi nên ăn 3 bữa mỗi ngày, mỗi bữa thức ăn nhiều bằng nắm tay của bé.


Không kéo dài thời gian ăn


Tâm lý cố ép con ăn hết bát bột, vừa ăn vừa cho con đi rong cả phố, để bữa ăn của con kéo dài tới 1, 2 tiếng là lỗi của khá nhiều bà mẹ. Điều này khiến đồ ăn của con không được đảm bảo, bị vữa, nguội, không còn ngon, dẫn đến việc bé chán ăn.


Thêm vào đó, ăn lâu nên dẫn tới thời gian bữa sau lại gần kề, con chưa kịp “thở” đã phải “chiến đấu tiếp hiệp sau”, bé sẽ có tâm lý sợ, ghét ăn, không hào hứng với việc ăn uống.


Các bà mẹ nên tập trung cho con ăn trong khoảng dưới 30 phút, nếu bé chưa ăn hết, bạn vẫn nên dọn đi luôn.

Thế mà theo số liệu thống kê của dự án “Đánh giá sự dung nạp sữa công thức ở trẻ và các vấn đề khi cho trẻ ăn” do công ty A.C. Nielsen thực hiện vào năm 2009, có đến 66% các bà mẹ trên thế giới và 91% các bà mẹ tại Việt Nam cho biết con họ thường xuyên bị nôn trớ, ợ hơi, quấy khóc, táo bón, đi phân lỏng và còn nhiều vấn đề khác…


Chăm sóc đúng cách cho trẻ bị rối loạn tiêu hóa


Không dung nạp đường lactose ở trẻ: một trong những nguyên nhân gây rối loạn tiêu hóa


Rối loạn tiêu hóa ở trẻ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, như hệ tiêu hóa của trẻ phát triển chưa hoàn chỉnh, hoặc liên quan đến công thức dinh dưỡng như thành phần đạm và chất béo của sữa không phù hợp với trẻ…


Theo một nghiên cứu gần đây của hãng Abbott, những triệu chứng rối loạn tiêu hóa trên cũng bắt nguồn từ việc cơ thể trẻ không dung nạp đường lactose trong sữa công thức ở một số trẻ. Mặc dù những triệu chứng này có thể do hoặc không do trẻ bú sữa công thức, vốn là nguyên nhân thường xuyên bị quy kết, điều đó có thể gây khó chịu cho cả trẻ lẫn cha mẹ.


BS. Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng phân môn Tiêu hoá Nhi – Trường đại học Y Dược TP.HCM, cho biết: “Trong một số trường hợp, cơ thể trẻ không dung nạp đường lactose trong sữa công thức sẽ gặp các triệu chứng này. Khi đó, cơ thể trẻ sẽ không có khả năng sản sinh đủ lượng lactase (enzyme tiêu hóa đường lactose). Lactose là loại đường có sẵn trong sữa bò và các sản phẩm sữa khác. Chính vì thế, lượng đường lactose không được tiêu hóa này vẫn nằm trong ruột của trẻ, gây nên tình trạng rối loạn tiêu hóa, uống sữa bị đau bụng, tình trạng này chỉ gây khó chịu chứ không nguy hiểm cho trẻ.”


Giải pháp giúp trẻ loại bỏ các triệu chứng rối loạn tiêu hóa khó chịu.


Theo con số thống kê tại Viện dinh dưỡng, ngày càng nhiều trẻ em từ 1 – 3 tuổi bị rối loạn tiêu hóa được khám và điều trị tại bệnh viện. Rất nhiều trẻ gặp tình trạng này kéo dài, không điều trị kịp thời nên dẫn đến giảm khả năng miễn dịch và suy dinh dưỡng. Chính vì thế, các bậc phụ huynh cần bình tĩnh để lựa chọn loại sữa và chế độ dinh dưỡng phù hợp để trị dứt tình trạng rối loạn tiêu hóa của trẻ, tránh mắc phải những sai lầm đáng tiếc.


BS. Tuấn nói thêm: “Nếu trẻ được cho ăn sữa công thức và gặp phải tình trạng rối loạn tiêu hóa, phụ huynh cần đưa trẻ đi khám để các chuyên gia dinh dưỡng tư vấn chọn loại sữa có công thức phù hợp nhất với trẻ, có đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết, giảm nhiều đường lactose, và được điều chế phù hợp (có thể thay đổi thành phần đạm hoặc chất béo) để giải quyết các vấn đề tiêu hóa này”.


Trong giai đoạn đầu đời, trẻ rất cần năng lượng và dưỡng chất cho sự phát triển toàn diện trong tương lai, vì thế những “thiên thần” bé nhỏ của bạn rất cần một hệ tiêu hóa khỏe mạnh để hấp thu tốt những dưỡng chất đưa vào cơ thể.

Trẻ bú bằng sữa mẹ đem lại rất nhiều lợi ích cho cả mẹ và bé. Tuy nhiên, hầu hết các bà mẹ thường lo lắng vì không có đủ lượng sữa cần thiết cho bé. Một vài lời khuyên sau đây phần nào giúp các mẹ giảm bớt được những lo lắng này.


Vai trò của sữa mẹ


Trước hết sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, thích hợp nhất đối với trẻ mà không có bất cứ loại sữa bột nào có thể so sánh được. Trong sữa mẹ có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết như: đạm, đường, mỡ, vitamin và muối khoáng với tỉ lệ thích hợp cho sự hấp thu và phát triển cơ thể trẻ. Bú mẹ, trẻ sẽ lớn nhanh, phòng được suy dinh dưỡng. Trong sữa mẹ có những yếu tố quan trọng bảo vệ cơ thể mà không một thức ăn nào có thể thay thế được đó là: các globulin miễn dịch, chủ yếu là IgA có tác dụng bảo vệ cơ thể chống các bệnh đường ruột và bệnh nhiễm khuẩn.


Các loại sữa mẹ


Sữa non : là dòng sữa đầu tiên, rất giàu năng lượng, phù hợp với nhu cầu của trẻ sơ sinh, nhất là trẻ sơ sinh non tháng. Sữa non giàu đường lactose – Lactose là một dạng đường có trong sữa bò và những sản phẩm từ sữa (kể cả sữa mẹ) và ít protein (đạm) hơn sữa bò, giàu các chất diệt khuẩn giúp trẻ tránh các bệnh nhiễm trùng, giàu vitamin A gấp 10 lần so với sữa vĩnh viễn. Nếu vì lý do gì trẻ không bú được sữa non thì có thể vắt ra cho trẻ uống. Nếu không dung nạp được đường lactose, bé thường bị tiêu chảy, đau bụng, “xì hơi”, khoảng 30 phút đến 2 giờ đồng hồ sau khi bé “ti mẹ” (hoặc dùng sữa công thức, thậm chí là tiêu thụ những sản phẩm có chưa lactose từ sữa như sữa chua, phômai – với nhóm bé đã đến tuổi ăn dặm).


Sữa chuyển tiếp : có từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 14 sau khi người phụ nữ sinh con.


Sữa vĩnh viễn : từ ngày 10 – 14 sau sinh, sữa mẹ sẽ tăng nhiều về số lượng và thay đổi cả về hình thức lẫn thành phần. Sữa mẹ trở nên loãng hơn và đó là sữa mẹ hoàn chỉnh với các thành phần dinh dưỡng ổn định. Các nhà chuyên môn nhận thấy, chế độ dinh dưỡng của người mẹ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sữa mẹ.


Các nguyên nhân làm giảm sự tiết sữa


Cho con bú chậm sau sinh từ 2 -3 ngày. Mẹ có các bệnh lý như: suy tim, thiếu máu, suy dinh dưỡng…


Mẹ còn quá trẻ: dưới 18 tuổi, tuyến vú chưa phát triển.


Mẹ không tăng cân đầy đủ khi mang thai.


Mẹ dùng các thuốc ức chế sự tiết sữa: aspirin, kháng sinh, chống dị ứng.


Làm gì để mẹ có nhiều sữa


Cho trẻ bú đều : tốt nhất, ngay sau khi sinh trong vòng nửa giờ đầu người mẹ nên cho trẻ bú. Vì sữa mẹ tiết ra theo phản xạ, bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa sớm… Trong những ngày đầu sữa còn ít, cần cho trẻ bú nhiều lần, sữa sẽ “về” nhiều hơn. Nếu đã ít sữa mà lại cho trẻ bú ít hoặc ăn bổ sung sữa ngoài, trẻ sẽ bỏ bú và sữa cạn dần, dẫn đến mất sữa. Trẻ được bú sữa non sẽ phòng bệnh được tốt. Động tác bú có tác dụng co hồi tử cung và cầm máu cho người mẹ sau sinh.


Dinh dưỡng đầy đủ: để góp phần đảm bảo có đủ sữa cả về số lượng lẫn chất lượng, người mẹ cần ăn uống đầy đủ. Khẩu phần ăn cần tăng thêm khoảng 350 Kcal/ngày, tương đương khoảng 1/4 lượng thức ăn so với ngày thường. Bữa ăn của mẹ cần đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm. Nhóm chất bột (cơm, khoai củ, bánh mì, bún, bánh phở…); Nhóm chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua, đậu đỗ…); Nhóm chất béo (dầu mỡ, bơ, lạc…); Nhóm viatmin và khoáng chất (rau xanh, quả chín). Mỗi bữa bà mẹ nên ăn thêm một bát cơm hoặc một củ khoai cùng ít thịt hoặc cá, trứng, đậu đỗ, rau củ và quả chín…



Uống đủ nước : người mẹ cần cung cấp đủ lượng nước cần thiết cho cơ thể, có thể là uống sữa hay nước ép trái cây đều rất tốt trong thời gian cho bé bú, uống đủ nước giúp cơ thể mẹ tiết ra nhiều sữa cho bé hơn.


Nghỉ ngơi đầy đủ : các bà mẹ đang trong thời kỳ cho con bú rất cần được nghỉ ngơi đầy đủ và thường xuyên đi dạo để hít thở không khí trong lành. Để đảm bảo sức khỏe và đủ sữa cho con bú, bạn cần ngủ ít nhất 10 tiếng mỗi ngày, 2 – 4 tiếng ban ngày và 6-8 tiếng ban đêm. Stress ảnh hưởng lớn đến việc tiết sữa của cơ thể người mẹ, vì thế nghỉ ngơi và thư giãn là cách giúp tăng cường lượng sữa. Ngoài ra, người mẹ cần ăn kiêng những chất ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng sữa như: rượu, cà phê, thuốc lá… Không nên uống các loại thuốc tân dược khi không có chỉ định của bác sĩ.

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014

Ăn dặm giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển và thói quen ăn uống của trẻ sau này. Có nhiều cách ăn dặm cho bé, tuy nhiên mẹ đã biết cách cho trẻ ăn dặm chưa? Hãy lựa chọn đúng đắn nhé bởi ăn dặm không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ mà còn định hướng tới việc ăn uống sau này ở trẻ.



Trong thời kì cho con ăn dặm quan trọng không phải chỉ vì cung cấp những dưỡng chất thiết yếu cho sự phát triển thể chất của bé mà chúng còn giúp bé làm quen với thế giới ẩm thực muôn màu muôn vẻ.


1. Thực đơn ăn dặm cho bé như thế nào?


Thực phẩm để tập ăn cần đơn giản, dễ làm. Bạn đừng chú ý đến thành phần dinh dưỡng vội vì điều quan trọng lúc này là tập cách ăn, giúp bé quen với độ đặc, vị thức ăn mới và ăn bằng thìa thay vì bú mút. Các thức ăn đầu tiên có thể là:


- Chuối hoặc đu đủ, xoài chín mềm nạo bằng thìa.


- Một miếng khoai lang hoặc khoai tây nhỏ nấu chín mềm, tán nhuyễn, trộn với vài thìa sữa mẹ hoặc loại sữa bò bé đang bú.


- Một thìa bột ăn liền của trẻ em pha loãng với nước ấm hoặc sữa, 1 thìa nước cơm hòa với sữa.


- Tán nhuyễn vài thìa bí đỏ, bí xanh từ nồi canh gia đình.


Đầu tiên, cần chọn một trong các thứ trên cho bé nếm thử từng chút một. Nếu bé chịu ăn, có thể tăng dần lên 1-3 thìa nhỏ. Nên tập lúc bé đói; sau đó vẫn cho bú bình thường đến khi đủ no.


Khi bé đã quen với thức ăn đầu tiên, hãy cho bé nếm loại mới với cách như trên. Dần dần, bé sẽ quen với nhiều mùi vị, độ đặc khác nhau của thức ăn. Nên tập từ ít đến nhiều, từ loãng đến sền sệt rồi đặc hơn để bé dần dần thích nghi. Mỗi loại thức ăn mới cần tập trong 3-5 ngày mới chuyển sang thức khác. Thời gian này đủ để bé làm quen với thực phẩm, giúp mẹ phát hiện ra loại thức ăn gây dị ứng cho trẻ để loại trừ.


Cách chế biến bột ăn dặm cho bé


Để đảm bảo trẻ hấp thụ đủ chất dinh dưỡng mà luôn cảm thấy ngon miệng, khi chế biến món ăn mẹ cần chú ý một vài điểm sau:


- Ða dạng các loại thực phẩm: điều này sẽ tránh gây nhàm chán cho trẻ trong các bữa ăn. Khuyến khích mẹ nên chọn những loại đồ ăn mà trẻ thích.


- Thức ăn cho trẻ phải mềm, dễ tiêu, tránh những thức ăn thô nguyên hạt khó tiêu thấp năng lượng như ngô, khoai môn, bột sắn…


- Với trẻ ăn kém, chậm lên cân hay sau đợt ốm, cần chú trọng bồi dưỡng bằng các loại thức ăn giàu dinh dưỡng giúp trẻ nhanh bắt kịp đà phát triển, đặc biệt là thực phẩm giàu đạm động vật: sữa mẹ, sữa công thức (trong trường hợp không được bú mẹ), trứng, thịt, cá…


Ngoài ra, khi bắt đầu ăn dặm cần lưu ý cho trẻ được uống đủ nước đun sôi để nguội, nước hoa quả tươi và ăn thêm hoa quả để cung cấp đủ vitamin và chất xơ để đảm bảo quá trình tiêu hóa trong cơ thể được thuận lợi.


Mẹ chú ý khi chế biến đồ ăn dặm cho trẻ phải đảm bảo an toàn vệ sinh. Hệ miễn dịch của trẻ em còn yếu dễ nhiễm bệnh vậy nên đồ ăn phải sạch, tươi, khâu chế biến phải được đảm bảo.


Thực đơn ăn dặm như thế nào cho đủ chất?


Thực phẩm trong thiên nhiên được phân thành 4 nhóm dinh dưỡng chính: chất bột đường (gạo, bún, mì, bánh phở), chất béo (dầu ăn, mỡ động vật, bơ), chất đạm (thịt, cá, tôm, cua, trứng, tào phớ), rau và trái cây.


Khẩu phần ăn dặm của bé phải có cả 4 nhóm thực phẩm trên thì mới đủ chất (trừ giai đoạn đầu chỉ ăn dặm với 1 loại thực phẩm). Với nửa bát bột hay cháo (khoảng 100 ml), cần cho thêm chất đạm, rau củ (đều băm nhuyễn), dầu ăn (hay mỡ nước), mỗi thứ 1 thìa canh.


Bé phải được cho ăn cả phần cái (phần xác) của thực phẩm thì mới nhận được đủ chất dinh dưỡng. Vì vậy, các thực phẩm cần được xắt nhỏ, băm nhuyễn và nấu chín. Nên nấu bữa nào ăn bữa đó; thay đổi món thường xuyên cho bé. Giữa các bữa ăn, bạn nên cho bé uống thêm 50-100 ml nước trái cây hoặc trái cây tán nhuyễn để cung cấp thêm các loại sinh tố cần thiết.


 

Chế độ dinh dưỡng trong suốt thời gian mang thai ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Nhất là khi mang thai 3 tháng đầu, bạn không nhất thiết phải ăn nhiều hơn trước nhưng bạn cần phải biết bổ sung những dưỡng chất cần thiết cho cơ thể cả mẹ và con như: protein, sắt, kẽm…bằng những thực phẩm tươi cá chép , lươn hay những món bổ dưỡng như nấm đùi gà , cháo lươn , cháo cá chép ..



Để có một sức khỏe tốt cho bạn và cho thai nhi mẹ bầu và người thân nên có chế độ dinh dương chu đáo trong thời kỳ mang thai này .


Trứng ngỗng


Để trả lời cho câu hỏi ăn gì khi mang thai 3 tháng đầu thì câu trả lời là trứng ngỗng , trứng ngỗng giàu chất bổ dưỡng và có tác dụng an thai, nếu bà mẹ ăn nhiều trứng ngỗng giúp con thông minh, lanh lợi. Một số người còn cho rằng ăn trứng ngỗng là để trừ tà ma nhập vào, để bé khỏe mạnh, xinh đẹp. Vì lẽ đó, trứng ngỗng không được thiếu trong dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai 3 tháng đầu.


Trên thực tế, chưa có công trình khoa học nào trên thế giới xác định trứng ngỗng giúp an thai hay giúp trẻ thông minh. Về dinh dưỡng, thì trứng gà mới là thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là vitamin A và sự phân bố tỷ lệ các chất dinh dưỡng  hợp lý. Do đó, các nhà khoa học nhận định, không nhất thiết phải ăn trứng ngỗng trong thai kỳ.


dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai 3 tháng đầu trứng ngỗng


Thay vào đó, bạn hãy cân đối nhiều loại thực phẩm khác nhau, đa dạng nhóm và chủng loại từ rau củ quả đến cá thịt các loại để cung cấp đủ dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai 3 tháng đầu – giai đoạn rất quan trọng cho cả thai kỳ.


Cháo lươn


trong thành phần của lươn có giá trị dinh dưỡng rất cao. Trong 100r thịt lươn thì có 12.7g chất đạm, 25.6g chất béo và 285g calo, ngoài ra thịt lươn còn chứa nhiều vitamin cùng các khoáng chất quan trọng khác cho cơ thể như vitamin A, B1, B6, Fe, Na, K, Ca. Vì thế, có thể xem việc ba bau an chao luon tốt nhất trong thời kỳ mang thai.


Nếu so các loại như hến, tôm đồng, cua đồng thì thịt lươn là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao nhất. Bởi vậy, thịt lươn luôn được lựa chọn là thức ăn bồi bổ cho người ốm, người già, trẻ nhỏ


Cá chép


Cá chép thịt dày béo, ít xương dăm, thớ thịt trắng mịn, mùi vị thơm ngon.


Trong Đông Y cá chép được xem là một vị thuốc bổ và có tác dụng trị bệnh. Cá chép chứa nhiều đạm nên dễ được cơ thể hấp thu. Cá chép tính bình có tác dụng lợi thủy, tiêu thủng, hạ khí thông sữa, khai kiện tì vị. Vì thế những người bị phù hay động thai hoặc sữa ít đều được khuyên ăn cá chép.


Còn trong kinh nghiệm dân gian truyền tai nhau, dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai 3 tháng đầu không thể thiếu món cháo cá chép. Bởi vì cháo cá chép  giúp an thai cho phụ nữ đang mang bầu. Khi có thai mà mẹ năng ăn cháo cá chép thì con sau này sẽ thông minh, da trắng và đặc biệt là môi bé sẽ rất đỏ. Ăn nhiều cá chép trước khi mang bầu sẽ có cơ hội sinh con gái.


Ngoài ra, đối với các phụ nữ mang thai khoảng 5 -6 tháng có chứng sưng mặt, phù thủng tay chân, dùng 1 con cá chép nặng khoảng 500g, nấu với 120g đậu đỏ, thê ít gừng, hành, nấu chín, ăn nhạt sẽ giúp tiêu trừ các chứng này.


Nếu hầm nhừ 250g cá chép với 1 chân giò lợn nhỏ, 3g thông thảo rồi ăn liên tục 1 – 2 ngày, sẽ giúp sản phụ có nhiều sữa và sữa rất mát mẻ, tốt cho con.


Và còn nhiều lợi ích khác, nên cá chép được các nhà khoa học công nhận là món ăn không thể thiếu trong chế độ dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai 3 tháng đầu và trong suốt thai kỳ.

Rất nhiều người cho rằng sau khi sinh, những giọt sữa đầu tiên rất bẩn hoặc đó là những giọt sữa loãng, không có giá trị dinh dưỡng nên đã không cho con bú. Đây là một quan niệm sai lầm.


Sữa non là một chất dịch lỏng, màu vàng, dính. Nó được tiết ra trong 3-5 ngày đầu sau khi sinh. Lượng sữa non tiết ra thay đổi tùy theo từng người, thông thường từ khoảng 10-100ml/ngày và trung bình là 30ml/ngày. Sự tiết sữa này tăng lên dần dần và đạt tới thành phần của sữa bình thường sau vài ngày.


Sữa non là một thực phẩm có thể tích nhỏ và mật độ cao. Nó chứa ít đường lactose, chất béo (có 2g/100ml) và các vitamin tan trong nước hơn sữa bình thường (sữa trưởng thành) nhưng nhiều protein và các vitamin tan trong chất béo hơn bao gồm vitamin A (cao gấp 2 lần sữa trưởng thành), vitamin E và vitamin K. Ngoài ra nó còn có thêm một số chất khoáng như Fe, Zn…


Lactose là một dạng đường có trong sữa bò và những sản phẩm từ sữa (kể cả sữa mẹ).


Không dung nạp được lactose có nghĩa là cơ thể không sản xuất ra đủ lactase – một enzym cần thiết để tiêu hóa lactose.



Kết quả, hàm lượng đường lactose không được tiêu hóa sẽ tích tụ ở ruột và gây nên vấn đề về đường ruột. Hiện tượng này thường gây khó chịu cho bé nhưng lại không nguy hiểm. Tình trạng không hấp thụ lactose có khả năng kéo dài ngay cả khi bé bước vào tuổi mẫu giáo hoặc đã đi học


Trong sữa non còn tập trung cao các tế bào miễn dịch, trong đó có thành phần hòa tan bao gồm immunoglobulin (IgA-IgM-IgG) lysozyme và các enzym khác, lactoferin và cả các thành phần tế bào bao gồm tế bào lympho, bạch cầu hạt trung tính và các tế bào biểu mô; những tế bào này có thể thực bào và tiêu diệt vi khuẩn nhưng chúng cũng có thể điều biến hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh bằng cách sản xuất các cytokin, những chất trung gian miễn dịch hòa tan, chúng có thể kích thích các tế bào miễn dịch ở trẻ sơ sinh ví dụ TGF-beta có thể giảm viêm ở ruột, giảm dị ứng và kích thích sự sản xuất IgA ở ruột.


IgA chế tiết (SIgA) là quan trọng nhất, nó có ngay ở ngày đầu sau đẻ, khoảng 6,03 cộng trừ 2,3g/l nhưng giảm rất nhanh ở ngày thứ ba sau đẻ chỉ còn khoảng 1,42 cộng trừ 0,84g/l. Dạng IgA độc đáo này được cấu tạo bởi 2 phân tử IgA liên kết với cấu phần chế tiết, có sự đề kháng chống phân giải protein và vì vậy có thể vẫn có hoạt tính trong đường tiêu hóa. Người ta đã chứng minh được rằng miễn dịch của người mẹ có thể được truyền sang trẻ sơ sinh qua một cơ chế được gọi là chuyển dời ruột – vú. Với cơ chế này, các kháng thể chống tác nhân gây bệnh mà người đã phơi nhiễm được chuyển vào sữa mẹ, cung cấp sự bảo vệ chống nhiễm khuẩn cho em bé.


Các oligosaccharide carbonhydrat với cấu trúc phức tạp là những chất quan trọng cho sự tự vệ chống nhiễm khuẩn bằng cách tác động như những “mối dụ” cấu trúc, qua đó ngăn chặn sự kết dính của tác nhân gây bệnh với những cấu trúc tương tự trên bề mặt biểu mô ruột. Chúng cũng có thể hoạt động như những chất nền cho các vi sinh vật có lợi cho cơ thể.


Sữa non còn chứa rất nhiều ganglioside, một nhóm glycosphingolipid quan trọng đối với sự phát triển não, chúng không những cung cấp vật liệu xây dựng cho sự phát triển sớm của não mà còn hoạt động như các thụ thể đích để vi khuẩn dính vào và ảnh hưởng đến hệ miễn dịch ruột.


Sắt (Fe) và kẽm (Zn) những dưỡng chất vi lượng thiết yếu quan trọng đối với trẻ sơ sinh, có nồng độ cao trong sữa non. Một số nghiên cứu cho thấy, Fe và Zn được hấp thu tốt từ sữa mẹ và sự sử dụng những nguyên tố này sẽ giúp trẻ sơ sinh bảo toàn khối lượng dự trữ ở thời điểm mà chúng thường bắt đầu cạn kiệt.


Nhiều nghiên cứu cho thấy, miễn dịch của người mẹ được truyền sang trẻ sơ sinh qua một cơ chế được gọi là chuyển dời ruột – vú. Với cơ chế này, các kháng thể chống tác nhân gây bệnh mà người đã phơi nhiễm được chuyển vào sữa mẹ, cung cấp sự bảo vệ chống nhiễm khuẩn cho em bé.


Sữa non còn chứa rất nhiều ganglioside, một nhóm glycosphingolipid quan trọng đối với sự phát triển não, chúng không những cung cấp vật liệu xây dựng cho sự phát triển sớm của não mà còn hoạt động như các thụ thể đích để vi khuẩn dính vào và ảnh hưởng đến hệ miễn dịch ruột.


Sữa non đóng vai trò như một tác nhân điều biến tới sự phát triển của trẻ sơ sinh. Nếu cho nước hoặc các chất ngoại lai như mật ong, sữa công thức vào hệ dạ dày – ruột của trẻ sẽ không thể đảm bảo sự thích nghi của trẻ mới sinh.


Sữa non đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đặc trưng của trẻ mới sinh như thận của trẻ còn non nớt, không thể xử lý một lượng lớn các chất lỏng mà không gây ra các stress về trao đổi chất, sự sản xuất lactaza và các enzym khác ở ruột chỉ vừa mới bắt đầu, các chất chống ôxy hóa đều cần thiết cho việc bảo vệ chống lại sự phá hoại của các chất ôxy hóa và bệnh xuất huyết. Các immmoglobulin bao bọc lớp nền thành ruột còn non nớt, ngăn chặn sự thâm nhập của vi khuẩn, virut, vật ký sinh và các vi khuẩn gây bệnh khác, đồng thời các yếu tố phát triển kích thích các hệ thống của bản thân đứa trẻ.


Chính vì những lợi ích to lớn như vậy, cần cho trẻ bú sớm sau sinh. Nếu mẹ sinh thường, có thể cho con bú ngay trong vòng 30 phút đến một giờ sau sinh. Mẹ sinh mổ, thời gian bắt đầu khoảng 6 giờ sau mổ sinh, vì mẹ phải hồi phục sau tác dụng của thuốc gây tê. Thường sau 6 giờ, nếu hậu phẫu ổn, người mẹ được chuyển phòng để nằm cạnh con và tập cho con bú. Con cần nằm cùng giường với mẹ. Sự tiếp xúc mẹ con có tác động tinh thần giúp người mẹ mau xuống sữa.